Dịch vụ

Chồng có được ý bán căn hộ chung của hai vợ chồng do mình đứng tên

Theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình về tài sản chung của vợ chồng thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.

Mặt khác, tại khoản 2 Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này”.

Theo thông tin bạn cung cấp thì căn hộ chung cư được mua trong thời kỳ hôn nhân nên được xác định là tài sản chung của hai vợ chông, nên việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản này được giải quyết theo quy định tại các Điều 24, 26 và 35 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:

Thứ nhất, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng.

Thứ hai, trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì cần xác lâọ đại diện giữa vợ và chồng. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Việc ủy quyền này phải được lập thành văn bản và có thể công chứng, chứng thực nếu có nhu cầu.

Thứ ba, trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.

Như vậy, nếu chồng bạn muốn bán căn hộ thì phải có sự đồng ý của bạn. Nếu hai vợ chồng không có thỏa thuận, chồng bạn tự ý bán căn hộ này mà không cung cấp được văn bản ủy quyền của bạn cho mình thì giao dịch mua bán này sẽ bị vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ban gay tình được bảo vệ quyền lợi.

Tư vấn bởi Luật sư Đặng Thành Chung – Công ty Luật An Ninh ( Đoàn Luật sư TP. Hà Nội).